ĐỌC SƠ LƯỢC
THÁNH TÍCH CHÙA TRÔNG
Đọc qua các tóm tắt sơ lược Thánh tích , Với
nhớ ra cùng sưu tầm lời cô chuyền
Từ khi chín mười tuổi
, đến nay nhiệt tình ghi lại, những câu chuyện được nghe
Các già làng xưa kể
… Ở các địa phương thường tùy tiện sưu tầm theo cách riêng
Tra cứu, bia ký, hoặc
lời chuyện sai lệch , nên thường không thống nhất trong văn
Bản …Riêng tôi có
cách nắng nghe và suy ngẫm xin được trình rằng :
Đức Thánh tổ quê
Ngài gốc ở Trang hồ Xá , huyện Giao Thủy , tỉnh Ninh-Bình nay.
Phụ thân của Ngài là thiền sư Nguyễn Chiêu , Mẫu thân là Dương Thị Ứng quê : xã
Hào Khê , tổng Văn Hội , Huyện Vĩnh-Lai ( Ninh-Giang ) tỉnh Hồng Lộ ( Hải Dương )
Phụ thân của Ngài là thiền sư Nguyễn Chiêu , Mẫu thân là Dương Thị Ứng quê : xã
Hào Khê , tổng Văn Hội , Huyện Vĩnh-Lai ( Ninh-Giang ) tỉnh Hồng Lộ ( Hải Dương )
Khi còn nhỏ tuổi làm
nghề chài lưới,đăng , đó . đến hai mươi chín tuổi (29) Bỏ
Nghề đi tu cùng hai vị thân thích là :
Đức Giác-Hải Thiền
sư
Đức Từ-Đạo-Hạnh
thiên sư
Các Ngài Tầm Sư học
đạo , Kinh sách Thầy Van-Hạnh đã thông , cùng nhau đi Tây
Trúc lĩnh kinh, ba
người chuyên tâm mộ đạo học pháp thuật như Lai , qua biên giới
Vượt dẫy thập vạn Đại Sơn ( 10 vạn
núi lớn ) qua Vân-Nam sang Miến-Điên, ròng
Dã mấy năm mới đến Bến-Long-Vân,
Nhận thấy bến co chiếc thuyền không chủ
Toan mượn cùng nhau xuống thuyền
bơi qua sông . Ngài cùng sư Giác Hải lên bờ
Họ Từ ở lại trông thuyền , tìm gặp được phật Tổ
thì ra đón . Đợi đến ngày thứ
Ba không thấy , khi hai vị được gặp
phật Tổ , Đức như Lai nói : -Đạo-Hạnh đi
Học về để trả thù nên Phật Tổ can
không cho ra đón . Họ Từ cũng đoán được
Phần nào, ngẫm duyên phận mình ,
nên kiên trì chờ đợi . lĩnh kinh xong Phật Tổ
Cho hai thiền sư thăng về trước ,
xong Phật Tổ hiện trước họ Từ nói : Nhà sư nhẫn
Nại giúp người là rất có tâm , rồi
báo cho ho Từ biết , Hai sư Minh-Không và
Giác-Hải Đức Như Lai truyền cho
tâm ấn đã thăng đường về cõi . Phật Tổ truyền
Cho con lục trí thần thông , cho
cả phép rút đường qua biển , vượt núi ngàn trùng,
Từ-Đạo-Hanh bái tạ Phật Tổ ra về
. Họ Từ đã dùng phép rút đường vượt biển ,
Băng núi qua rừng về trước hai
Ngài Khổng Lộ và Giác Hải đón đường hai vị đi
Qua , phục trong bụi cây rậm giả hổ xông ra vồ, Khổng Lộ bực mình khi nhận
ra
Họ Từ Ngài cười bảo rằng : “ Muốn
làm kiếp ấy kiếp sau cho làm"
Sự hiển nhiên thành đạt ba Vị đắc
đạo tỏa đi bốn phương tám hướng giảng đạo .
Đức Khổng-Lộ đi truyền giảng Đạo ở
nhiều miền bắc bộ . Tự tích truyền thuyết
Chùa La-Vân huyện quỳnh Côi tỉnh
Thái Bình Ngài đã trụ trì tại đây , Bình
Thường vẫn thuần khiết một nhà tu
hành . Nhưng có chuyện lạ nhiều ngày tuần
Rằm dân làng dâng oản xôi lễ bái
nhà chùa cũng đóng oản xôi dâng lễ , thì thấy
Ngài cứ cấu đít oản ăn rồi mới lễ
, Một người biết đến nhiều người biết , càng để
Ý càng xốn xao…
Lại một hôm có khách, trong chùa
nuôi con chó , con mèo , Ngài bắt chó thịt đãi
Khách túm đầu chó nhờ khách giữ
chân chó cắt tiết dao không sắc nhay mãi chó
Đau bung mạnh tuột chân chó vùng
chạy mất , thế là khách chủ lại đạm bạc tương
Cà . Yên ắng sau ba ngày chó lại
về trông thấy chủ quẫy đuôi mừng , Chủ chỉ mặt
Chó nói rằng : Ta đã định giết mi
ăn thịt , nay về không ghét ta còn mừng. thế thì ta
Nuôi từ nay trở đi không ăn thịt
mi nữa ,
Tháng ngày trôi qua dân làng
La-Vân tiếng to tiếng nhỏ xốn xao . Đi đến quyết
Định đuổi Ngài khỏi chùa, chấp nhận
ý đó , Ngài chỉ xin làng cho chậm lại sau
Một tháng . . Thế
là ngày sau Ngài lặng lẽ đi mua tre về phần gốc làm đòn gánh
Thân ngọn chẻ lan đan sọt rế .
cũng vừa hết tháng mọi việc đã đủ , Ngài báo dân
Làng trả lại chùa , dân làng La-Vân lặng lễ vui tươi …
Đến sáng ngày mồng một dân làng
đông đủ Ngài tuyên Trao trả chùa . Bất
Thần
Quay vào nơi thờ tự trong chùa :
Ngài tuyên lệnh nay làng đuổi cha con mình đi
Để đòi lại chùa . Bây giờ tất cả
cùng đi quang sọt đầy đủ thằng nhớn gánh thằng
Bé thằng khỏe rắt
kẻ già , riêng Hộ Pháp ở lại …
Dân làng gơ gác
cùng lúc ông Hộ Pháp nhô đâu vỡ nóc chùa xin Ngài cùng đi
Bấy giờ mới biết
Ngài của giời , người khóc than van lạy, người cầu tha tội
Rồi xin Ngài để
lại dấu tích . Quay lại nhổ một bãi nước bọt bảo đây, Hô Pháp
Đứng yên .. Đấng quyến của Ngài cả chó , mèo ra đi xuyên
qua quỳnh Côi tới
Bãi Trại Vàng dừng
chân nhìn qua sông Luộc sang cánh đồng Hán , Hào bát ngát
Mênh mông thế đất
cao cao lưng Quy Rùa , chốn này thuộc tổng Văn-Hội huyện
Vĩnh-Lại (
Ninh-Giang ) . Ngài hạ nón Đồng Lờ thả sông túm quấn trên nón cả
Mèo , con chó
ngài bảo bơi theo , sang sông chọn vẹn . Thế mới biết đây chốn quê
Ngoại Ngài về dựng
miếu lập chùa . đặt tên Chùa-Trông, hiệu HƯNG LONG TỰ
Ngày đêm đèn sách
kệ kinh rồi giáng thế thiên hạ truyền bá trồng cây thuốc giảng
Đạo tuyên kinh,
khắp mọi miền , .hướng dẫn thiên hạ trồng cây bách thảo …
Vân trời báo trước
thiền Sư Từ-Đạo-Hạnh thoát trần sau đầu thai hoàng tử hóa
Hổ phù , Ngài biết
rõ nên tìm phương đến cứu .
Trước cửa chùa dòng sông Luộc tấp lập thuyền bè xuôi ngược , làm vè cho trẻ
Chăn trâu học thuộc,
để nhắn tin , thừa lộc oản chuối cho ăn rồi vui hát nghêu ngao
Rằng : TẬP TẦM VÔNG SÃI CHÙA TRÔNG
CHỮA CON VUA THƯỢNG VỊ
Tiếng lành đồn xa
đến tai triều đình . Mẫu Hậu cho ngay một thuyền đinh trăm
Lính xuôi sông Hồng
về cửa Luộc dò tìm , đến lối rẽ đậu thuyền lên bờ hỏi thăm
Đường về Chùa
Trông , gặp ngay Ông già quê mùa vẽ đường chỉ lối đi đến nơi .
Về cửa Chùa thuyền
đậu ngoài sông . Tướng quân vào tìm chủ chùa thật ngỡ
Ngàng Ông già chỉ đường lại là chủ Chùa-Trông .
Sau lời trình bày khúc triết
Của tướng quân về
tìm ngài . .Vui vẻ nhận lời rồi mời tất cả , ở lại xơi cùng Chùa
Bữa cơm chiều , Ngài
đưa cái liêu đất lung nấu khoảng già lẻ gạo . về chiều sân
Chùa rợp chim di
, bước vào ngài lấy cái dùi mõ đáp ngay con chim di xẻ gãy
Cánh. Bảo nấu thức
ăn đãi khách . đã chuẩn bị xong xuôi mời khách , cơm xới
Ra hàng long
,chim múc ra hàng vạc quân lính ăn no nê không hết … Trời đã
Sẩm tối Ngài mời
tất cả xuống thuyền nghỉ đêm nay sớm mai về không muộn
Quân lính yên ngủ
say xưa trên thuyền , tinh mơ sớm dậy đã thấy thuyên đậu bến
Kinh đô .. Tướng quân cùng dẫn Ngài vào cung , hết ngạc
nhiên này đến ngạc
nhiên khác …
Trong bộ y phục
nâu sờn mầu ngả bã , bước vào lộng lẫy
cung đình . la liệt khôi
Ngô tuấn tú , có người lên tiếng chuông khánh còn chẳng ăn
ai, huống hồ mảnh
trĩnh vất ngoài bờ
tre . Ngài thản nhiên vào tâu thương vị ,
Đang những buồn
sầu mẫu Hậu lo lắng
. Ngài lên tiếng trước chung quân văn võ yết kiến , rút trong
bao nải ra chiếc
đinh thuyền dài chừng chín phân dương lên nói tôi cắm đinh này
vào cột
triều đình đây, ai nhổ được thì chữa khỏi bệnh hoàng tử . tay trái kẹp
hai ngón giữa đặt
lên cột lấy tay phải đấm đấu đinh một nhát .. tưởng trò dễ dàng
ngờ đâu không ai
nhúc nhích nổi , đên buộc giây cho trăm lính không lôi ra được
Ngài thấy mọi người
chịu , bảo vậy thì tôi nhấc ra .Rồi Ngài nói xin chữa bệnh
Hoàng tử ,. Chỉ yêu cầu săm cái vạc độ ba trăm chai đổ đầy
dâu lạc bác bếp đun
Sôi khi thấy chớm
cạn gọi Ngài .. khi đến dầu sôi lại rút túi lấy đinh thuyền
Ra bỏ vào vạc dầu
sôi nói ai vớt được đinh thì chữa được bệnh Vua thượng Vị
Sau bao im nặng .
Ngài yêu cầu đưa bệnh nhân tới để chữa , bênh nhân là một Hổ
Phù ghê sợ mọi
người kinh hoảng những tiếng gầm hét . Ngài quay vào vạc dầu
Sôi sắn tay cúi
lưng vớt đinh thuyền trong vạc ra để bên cạnh . Xong đứng sau
Sốc nách hổ phù
đưa vào vạc dầu sôi tuột lông da kỳ cọ một hồi , vạc dầu nguội
Dần cũng vừa lúc
đưa bệnh nhân ra khỏi vạc . cho đứng chừng mươi phút, dở
Mầu sắc biến dần
da dẻ hồng hào tuấn tú khôi ngô rất đẹp trai …
. Tiếng vang danh
khắp mọi miền đồn sang cả nước Tàu . đang lúc con Vua nhà
Tống cũng bị bệnh
hiểm nghèo nguy kịch , phái bộ đến tầm Ngài khẩn cầu sang
Giúp , thống thiết
lời vua không thể chối từ . sau thời gian chữa bệnh bên Tàu ,
Hiểm nghèo chuyển
giảm tốt lành rõ rệt , hưng phấn Vua Tàu rất tin tưởng , Cả
Triều Đinh ngưỡng
mộ . Rồi ách giải tiêu tan, bệnh nhân cứu khỏi . Để tạ đền
Công ân , nhà vua
cho người nhắc hỏi Ngài tính công xá , Bẩm tâu thượng Đế
Nhân thần hèn mọn
công xá là bao . Quê thần Nam Chỉ , nhất
cần đồng đen, đúc
Chuông tô tượng ,
nhân thần có túi mọn này, xin hoàng đế ngọn số đồng đen cho
Vừa nải nhỏ , Vua
chẳng phải ngờ , mở kho cứ lấy , túi chưa được đầy kho đã
Hết bay , chào về
kinh cẩn , Dọc đường cân mẫn mếch túi đeo về , hả hê thấy đẹp
Kỳ quan dọc đường
Ô sao hay thế , túm sách một đôi , tầm xích gậy gánh , đỡ
Khó đoạn đàng , kịp
tàu Nam Hải , tàu đang nhổ leo ,Ngài kêu xin xuống , nể
Gánh kềnh càng ,
dừng cầu Ngài bước , mới được một chân , chếnh choáng bất
Thần , kêu Ngài
lui lại , đành bỏ tàu ước, hạ nón ta về , tầm xích làm đề mái chèo
thoăn thoắt , vẫn đuổi tâu nam cùng về Ha-Nội , Vô tình sóng dội , tâu gặp lâm
Nguy , Ngài đến kịp
thì , cứu tàu khỏi đắm , ngô đồng quỷ sóng , Phép hóa của
,
Ngài , Bí ngô phù
giải , trừ nạn thần tà , sóng yên tàu ổn ,
Đẻ bảo mật túi đồng
đen. Ngài đưa lên núi bên Phả-Lại cho đúc quả chuông to
Hoàn tất thử ba hồi
chín tiếng , âm hưởng lan tràn đông nam khắp chốn ,
Vàng con nghe mẹ
trâu,ngựa nhao về ( 2 ), để bình an xứ sở , cho đẵm Hồ Tây .
Kỳ quan nhặt về
phố Nối Hưng Yên , Đình Sinh Quán Sếu , để
lại Tân-Hưng
Gia-Lộc , chuông
thả sông Lục Đầu truyền rằng : muôn kiếp đời sau , kẻ sinh
Được mười người
con trai chỉ giây giải yếm buộc lôi chuông về .
Huyền thoại bãi
nước bọt hóa thành bèo dâu thả ruộng , trừ cỏ cây lúa tăng
Bông, sọt rế
La-Vân chuyền nghề sống đến nay, Mèo,
chó ca rằng :
Chùa Trông chó
đẻ mèo gào
Ai muốn câu tự thì vào Chùa-Trông …
Ngài tụng kinh niệm
Phật , lây đạo dạy người , nuôi nhau tử tế , cho nhau miếng
Khi đói bằng gói
khi no ., dạy trồng cây bách thảo , nuôi những bữa ăn , thuốc
Thang từ cây quả
, tránh dữ , gây lành . đâu có bệnh Ngài cầu an , đâu có họa
Ngài cầu tĩnh , khi
mất mùa Ngài cầu đảo tốt tươi , mùa sau thu bội …
Tại bia ký thần quang tự Chùa Keo xã Hành
Nghĩa huyện Vu-Thư tinh Thái Bình
Đã khắc lại bài Thơ tứ tuyệt ( Ngôn Hoài ) của
Ngài ,
( 2 ) trâu vàng , ngựa vàng là con của đồng đen
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả.” Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của phật giáo hưng thịnh thời Lý, là thày thuốc tài ba bậc nhất, là ngư dân gắn bó với thôn dã Đại Việt, là thiên sư cao tăng đức trọng; Ông có công rất lớn trong xây dựng nhiều chùa ở Việt Nam được nhiều nơi thờ Ông; là bậc thánh tổ nghề đúc đồng Việt Nam và được nhiều nơi lập đền thờ Ông.
Trước thế kỷ thứ X, Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc tiền bằng đồng đầu tiên trong lịch sử. Sau này Lý Quốc Sư là người đúc tượng phật chùa Quỳnh Lâm góp phần tạo nên “ Tứ đại khí” là báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt. Ông là người sưu tầm phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa văn minh Đông Sơn – văn minh của người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng ở Việt Nam.
Những địa phương có nghề đúc đồng lâu đời như các làng nghề Yên xá, Tống xá ở Ý Yên, lễ hội Làng Viềng - Nam Định trước cửa đình thờ Nguyễn Minh Không nhân dân bày bán dụng cụ bằng sắt, bằng đồng; Chùa Tổ Ong phố Lò Đúc, phố Ngũ xá - Hà Nội; đình làng Chè, làng Rỵ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa; làng Đông Mai ở Văn Lâm– Hưng Yên đều thờ Nguyễn Minh Không là Ông tổ nghề đúc đồng. Nguyễn Minh Không không chỉ là pháp tăng cao siều, là danh y giỏi, là ông tổ nghề đúc đồng, nhân dân còn suy tôn
ông là Thánh Nguyễn. Trong dân gian có câu:
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh
Làng
Đại Hữu và làng Điềm Dương liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn. Làng Đại Hữu nơi sinh vua Đinh Tiên
Hoàng, làng Điềm Dương nơi sinh Nguyễn Minh Không. Vậy,
chữ
Thánh ở
đây chỉ
Nguyễn
Minh Không.
Trong tín ngưỡng
dân gian Việt
Nam, phần
lớn
có ý kiến
cho rằng
có 4 vị
thần
trong nhóm tứ bất tử, đó là Tản
Viên Sơn thần, Phù Đổng
Thiên vương, Chử Đồng
Tử,
Liễu
Hạnh
Công chúa. Tuy nhiên, thực tế trong tứ
bất
tử
có số
lượng
các vị
thần
bất
tử
nhiều
hơn 4 và trong đó còn có Lý Quốc
Sư, Từ Đạo
Hạnh,
Trần
Hưng Đạo. Nhà học
giả
cuối
thế
kỷ
XIX đầu
thế
kỷ
XX Kiều
Oanh Mậu
người
làng Đường
Lâm, trong lời Án sách Tiên phả dịch
lục
có viết:
Thiền sư Nguyễn Minh Không một trong những bậc danh y lẫy lừng ở thời Lý có tài chữa khỏi bệnh “ hóa hổ” cho vua Lý Thần Tông, được vua phong làm Quốc Sư; được nhân dân suy tôn là Ông tổ nghề đúc đồng và là Thánh Nguyễn một trong những vị Thánh bất tử của Việt Nam.
Lý
Quốc Sư (李國師); sinh
ngày 15 tháng 10 năm
1065 mất năm1141; tên thường gọi theo chức danh pháp lý cao nhất của thiền sư, pháp sư Nguyễn Minh Không (阮明空), một vị cao tăng đứng đầu của triều đại nhà Lý trong lịch sử Việt Nam.
Lý Quốc Sư Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành (阮志誠)
sinh tại xã Đàm Xá, phủ Tràng An (nay là
làng Điền Xá, xã Gia Thắng, Gia Viễn, Ninh Bình).
Cha của thánh Nguyễn là ông Nguyễn Sùng, quê ở thôn Điềm Xá, phủ Tràng An.
Mẹ ông là bà Dương Thị Ứng, Vĩnh Lại, phủ Ninh Giang. Gia cảnh hai vợ chồng ông Nguyễn Sùng rất nghèo nhưng luôn chăm lo làm việc thiện. Hai ông bà sinh hạ được một người con trai khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Nguyễn Chí Thành. Cha mẹ mất sớm, Chí Thành sống qua ngày bằng nghề bắt cá trên sông Hoàng
long.
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả.” Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của phật giáo hưng thịnh thời Lý, là thày thuốc tài ba bậc nhất, là ngư dân gắn bó với thôn dã Đại Việt, là thiên sư cao tăng đức trọng; Ông có công rất lớn trong xây dựng nhiều chùa ở Việt Nam được nhiều nơi thờ Ông; là bậc thánh tổ nghề đúc đồng Việt Nam và được nhiều nơi lập đền thờ Ông.
Trước thế kỷ thứ X, Vua Đinh Tiên Hoàng
đã cho đúc tiền bằng đồng đầu tiên trong lịch sử. Sau này Lý Quốc Sư là người đúc tượng phật chùa Quỳnh Lâm góp phần tạo nên “ Tứ đại khí” là báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt. Ông là người sưu tầm phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa văn minh
Đông Sơn – văn minh của người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng ở Việt Nam.
Những địa phương có nghề đúc đồng lâu đời như các làng nghề Yên xá, Tống xá ở Ý Yên, lễ hội Làng Viềng - Nam Định trước cửa đình thờ Nguyễn Minh Không nhân dân
bày bán dụng cụ bằng sắt, bằng đồng; Chùa Tổ Ong phố Lò Đúc, phố Ngũ xá - Hà Nội; đình làng Chè, làng Rỵ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa; làng
Đông Mai ở Văn Lâm– Hưng Yên đều thờ Nguyễn Minh Không là Ông tổ nghề đúc đồng. Nguyễn Minh Không không chỉ là pháp tăng cao siều, là danh y giỏi, là ông tổ nghề đúc đồng, nhân dân còn suy tôn
ông là Thánh Nguyễn. Trong dân gian có câu:
Đại Hữu sinh Vương
( 2 ) trâu vàng , ngựa vàng là con của đồng đen
Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Quốc sư Minh Không rất linh ứng. Phàm khi có tai ương hạn lụt, cầu đảo đều nghiệm cả.” Nguyễn Minh Không là hiện thân quyền lực linh thiêng của phật giáo hưng thịnh thời Lý, là thày thuốc tài ba bậc nhất, là ngư dân gắn bó với thôn dã Đại Việt, là thiên sư cao tăng đức trọng; Ông có công rất lớn trong xây dựng nhiều chùa ở Việt Nam được nhiều nơi thờ Ông; là bậc thánh tổ nghề đúc đồng Việt Nam và được nhiều nơi lập đền thờ Ông.
Trước thế kỷ thứ X, Vua Đinh Tiên Hoàng đã cho đúc tiền bằng đồng đầu tiên trong lịch sử. Sau này Lý Quốc Sư là người đúc tượng phật chùa Quỳnh Lâm góp phần tạo nên “ Tứ đại khí” là báu vật nổi tiếng của nước Đại Việt. Ông là người sưu tầm phục hưng nghề đúc đồng – tinh hoa văn minh Đông Sơn – văn minh của người Việt cổ mà trở thành tổ sư nghề đúc đồng ở Việt Nam.
Những địa phương có nghề đúc đồng lâu đời như các làng nghề Yên xá, Tống xá ở Ý Yên, lễ hội Làng Viềng - Nam Định trước cửa đình thờ Nguyễn Minh Không nhân dân bày bán dụng cụ bằng sắt, bằng đồng; Chùa Tổ Ong phố Lò Đúc, phố Ngũ xá - Hà Nội; đình làng Chè, làng Rỵ ở Thiệu Hóa, Thanh Hóa; làng Đông Mai ở Văn Lâm– Hưng Yên đều thờ Nguyễn Minh Không là Ông tổ nghề đúc đồng. Nguyễn Minh Không không chỉ là pháp tăng cao siều, là danh y giỏi, là ông tổ nghề đúc đồng, nhân dân còn suy tôn
ông là Thánh Nguyễn. Trong dân gian có câu:
Đại Hữu sinh Vương
Điềm Dương sinh Thánh
Làng
Đại Hữu và làng Điềm Dương liền kề nhau thuộc huyện Gia Viễn. Làng Đại Hữu nơi sinh vua Đinh Tiên
Hoàng, làng Điềm Dương nơi sinh Nguyễn Minh Không. Vậy,
chữ
Thánh ở
đây chỉ
Nguyễn
Minh Không.
Trong tín ngưỡng
dân gian Việt
Nam, phần
lớn
có ý kiến
cho rằng
có 4 vị
thần
trong nhóm tứ bất tử, đó là Tản
Viên Sơn thần, Phù Đổng
Thiên vương, Chử Đồng
Tử,
Liễu
Hạnh
Công chúa. Tuy nhiên, thực tế trong tứ
bất
tử
có số
lượng
các vị
thần
bất
tử
nhiều
hơn 4 và trong đó còn có Lý Quốc
Sư, Từ Đạo
Hạnh,
Trần
Hưng Đạo. Nhà học
giả
cuối
thế
kỷ
XIX đầu
thế
kỷ
XX Kiều
Oanh Mậu
người
làng Đường
Lâm, trong lời Án sách Tiên phả dịch
lục
có viết:
Tên các vị Tứ bất tử của nước ta, người đời Minh cho là Tản Viên, Phù Đổng, Chử Đồng Tử, Nguyễn Minh Không. Đúng là như vậy. Vì bấy giờ Tiên chúa Liễu Hạnh chua giáng sinh nên người đời chưa thể lưu truyền, sách vở chưa thể ghi chép. Nay chép tiếp vào. Đỗ Sơn Hà Sưu tầm và tổng hợp
tài liệu
Mẫu Thân Của Ngài Ở VĨNH LẠI NHÉ ..
Trả lờiXóa